KHÔNG PHẢI CHUYỆN TƯƠNG PHÙNG
/Đôi lời: Hồi nhỏ tôi có nghe câu này: "Nghẹn thương đỏ mắt chuyện tương phùng", nghe thôi đã muốn chảy nước mắt. Nhưng đây không hẳn là một câu chuyện tương phùng./
Ông Chín thương bà Chín, chuyện này cả chung cư đều biết.
Cơm Hẻm gần xóm nổi tiếng nhất món xíu mại, quán 11 giờ sáng mở cửa, 11 giờ kém 10 đã thấy ông Chín lò dò ngay cổng. Bà Chín thích xíu mại lắm, đi trễ lỡ hết rồi sao. Ông Chín nói vậy. Từ năm tôi mười tuổi đến năm mười tám, ông Chín và bà Chín vẫn ngồi cạnh nhau ăn cơm trên cái xích đu dưới sân chung cư. Cái xích đu kêu kẽo kẹt từ mười một giờ mười lăm trưa đến tận lúc bọn nhỏ học Tiểu học trong xóm chạy đến đầu ngõ sau khi tan học.
Ông Chín dáng người to cao, giọng miền Nam ồm ồm, lúc nào nói chuyện cũng như sấm rền gió cuốn. Bà Chín nhỏ người, lưng còng, giọng ngọt hơn mía lùi, lũ trẻ chúng tôi thích nhất là nghe bà kể chuyện cổ tích. Ông Chín và bà Chín gặp nhau lúc nào, không ai biết. Từ ngày xóm tôi có chiếc tivi màu đầu tiên, mỗi tối, cả hai đã dắt díu nhau ngồi xem ké phim truyền hình.
Ông Chín nổi tiếng mít ướt. Xem "Đất phương Nam" tới đoạn thằng An nhận cha, ông hỉ mũi cái rột. Coi "Cuộc đời phiêu bạt của Tam Mao" thấy nhóc Tam Mao mặt mày nhem nhuốc bụng đói kêu rột rột giương mắt ngó con chó lông trắng muốt mặc đồ đẹp đi ngang, ông lén lấy khăn tay lau nước mắt. Hôm ti vi chiếu cảnh Tề Thiên đỏ mắt chào thầy sau khi bị đuổi rồi quay lưng đi thẳng, ông òa khóc. Tụi trẻ con xóm tôi cười ông quá trời, nói ông yếu đuối như con gái. Bà Chín gõ vào đầu từng đứa một, bảo không được hỗn. Rồi như mọi khi, bà đưa ông một mẩu khăn giấy đã được gấp gọn gàng. Thấy người ta khóc ướt, bà lại đưa mẩu khác, tới khi hết nước mắt mới thôi. Mấy cô chú trong xóm nói, chỉ có bà Chín mới dỗ được cha nội này. Ông Chín lỏn lẻn cười.
Trong căn phòng nhỏ của bà Chín có một khung ảnh. Bà Chín trong ảnh trẻ măng, tóc đen nhánh, miệng có lúm đồng tiền, cười hiền hậu dựa đầu vào vai một ông Tây nhìn hùng hổ dọa người. Má tôi bảo, năm xưa bà Chín bán nước mía gặp một anh lính Mỹ vừa uống vừa trêu cô bán nước nhỏ người dễ thương, trêu mãi nên duyên vợ chồng. Cả hai không có cái đám cưới nào, chỉ bức hình với đôi nhẫn vàng. Rồi người chồng phải đi chiến trận xa. Đi mãi không về. Cả xóm ai cũng giục bà Chín mau đi bước nữa, không ai tốt bằng ông già mít ướt kia đâu. Lúc nào bà cũng cười trừ phẩy tay. Hồi nhỏ mỗi lần ăn nhờ ở đậu nhà bà Chín mỗi bận ba má đi làm xa, lúc nào giữa đêm tỉnh dậy, tôi cũng thấy người phụ nữ ấy xõa mái tóc dài, chong cây đèn vàng vọt, mò mẫm bức ảnh cũ. Những đêm dài ấy, bà Chín có khóc không, tôi cũng không rõ nữa.
Sáng ấy trời trong, ông Chín tưới xong đám cây, chăm xong chậu cúc, lấy giùm mớ đồ nhà bà Bảy cho vào giỏ, lục tục pha ấm trà để ngồi nhâm nhi với bà Chín thì có chiếc xe hơi đậu cái xịch trước cổng chung cư. Một thanh niên cao to nhanh nhẹn bước ra khỏi xe, chạy vọt tới tiệm bán nước của cô Hai, hỏi bằng giọng ngang phè, là ở đây không biết có ai tên Nguyễn Thị Chín. Bà Chín ngước đôi mắt già nua lên, mắt không chớp mãi đến khi anh chàng ấy đẩy chiếc xe lăn chở một ông Tây già khòm người đầy sẹo đến trước mặt bà. Ông chậm rãi đưa tay về phía bà, nói em ơi. Con người chúng tôi chưa bao giờ thấy nhỏ một giọt nước mắt lần đầu tiên khóc rung bần bật cả vai. Bà cứ miết mãi bàn tay ông già ấy, chẳng nói câu gì, chỉ lặng lẽ rơi lệ.
Ông Chín đứng kế bà Chín, không biết để tay ở đâu, để chân thế nào. Tự nhiên cái gì cũng sượng trân, cũng ngại ngùng.
Mấy cô trong xóm nói nhỏ với nhau, không biết bà Chín có đi theo chồng không ha. Má tôi nói vậy ông Chín thì sao đây? Mọi người im lặng.
Trưa hôm đó Cơm Hẻm thất thu hai hộp cơm. Bà Chín tối mịt mới về nhà. Ông Chín ngồi chờ trên chiếc xích đu từ trưa, im lặng nhìn bà. Cả hai ngồi kế nhau, ngước nhìn ánh trăng bị tán cây um tùm che khuất. Người phụ nữ kế bên nhấc bàn tay mảnh khảnh nắm chặt tay ông Chín. Bàn tay nhăn nheo đầy sẹo và chai sần. Vết sẹo này là lúc nhặt từng mảnh vỡ của ngôi nhà sau bom dội để tìm bức hình duy nhất chụp với chồng. Vết chai này là khi nắm chặt cây bút viết thư gửi người chồng đã mất nơi sa trường, thư chất đống trong tủ mà không biết đề địa chỉ nào để gửi. Bàn tay đã cầm từng mảnh khăn giấy đưa ông Chín. Bàn tay đã lừa từng mẩu bí trong chén canh đưa ông vì biết ông thích ăn. Người đàn ông đưa tay sờ từng vết chai, từng mảnh sẹo. Chỗ ngón áp út của bà Chín đã phai vết hằn đeo nhẫn từ lâu. Có dạo ông Chín lượn lờ hoài chỗ tiệm vàng tới mức bà chủ thấy là lườm chực đuổi. Ông muốn tìm một chiếc nhẫn vàng. Tìm hoài tìm hoài, vẫn thấy không chiếc nào đủ đẹp với bàn tay này. Ông tính để đó, tới lúc tìm được, sẽ lén bỏ vô bịch nilon đựng hộp cơm xíu mại, cho bà hết hồn chơi. Người ta kêu ông nhát quá chừng, sao không đánh nhanh thắng lẹ, dọn về ở chung cho rồi. Thích gì chục năm trời không nói năng gì hết. Thật ra ông nghĩ chỉ cần vầy là được rồi, ngày ngày ngồi xích đu, ăn cơm Hẻm, để bà đưa khăn giấy cho mình lau nước mắt. Không quên được người cũ cũng không sao hết, bà Chín vui là đủ.
Ngày bà Chín tạm biệt xóm giềng rồi leo lên chiếc xe bóng lộn, ai cũng chảy nước mắt. Chú Hào vỗ vai người đàn ông mít ướt nhất xóm tôi, bảo thôi khóc đi, chẳng ai dám cười bác đâu.
Ông Chín dõi mắt trông theo chiếc xe chở người mà ông đã mua cơm xíu mại cho hơn chục năm trời đến khi nó biến thành chấm tròn cuối con đường, rồi biến mất hẳn. Ông đứng đó lâu thật lâu, như cả chục năm trôi qua trong kí ức, như cả một đời.
Nhưng ông không khóc. Ông tuyệt không khóc.